Hotline: 0973 549 00
Menu

Nhà nước sẽ hỗ trợ tiền tỷ cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp

Chính phủ có chính sách hỗ trợ tiền mặt hàng tỷ đồng cho DN đầu tư vào trồng cây mắc ca, chăn nuôi gia súc gia cầm, giết mổ gia súc gia cầm, sấy và chế biến nông sản… Tuy nhiên, dư luận vẫn còn hoài nghi về mức độ khả thi của chính sách này.

Phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp với Nông thôn mới được tổ chức sáng 22/5 tại Hà Nội, ông Đinh Ngọc Minh, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế nông nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Chính phủ đã ban hành Nghị định 210/2013 ngày 19/12/2013 nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp – nông thôn. Tuy nhiên, đến năm 2015 nghị định mới bắt đầu được triển khai thực hiện, theo đó nhà đầu tư vào nông lâm thủy sản được hỗ trợ tiền mặt từ 2-20 tỷ đồng/dự án đầu tư tùy vào lĩnh vực đầu tư.


Nhà nước sẽ hỗ trợ tiền mặt cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp (Ảnh minh họa)

Cụ thể, sẽ hỗ trợ thấp nhất 2 tỷ đồng/dự án đầu tư cơ sở giết mổ gia súc gia cầm tập trung công nghiệp với quy mô tối thiểu là 400 con gia súc hoặc 4.000 con gia cầm hoặc 200 gia súc và 2.000 gia cầm.

Dự án chưa có đường giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước đến hàng rào dự án thì còn được hỗ trợ thêm 70% chi phí và không quá 5 tỷ đồng xây dựng các hạng mục trên.

Dự án đầu tư cơ sở chăn nuôi gia súc có quy mô tập trung được hỗ trợ 3 tỷ đồng/dự án, riêng với chăn nuôi bò sữa cao sản mức hỗ trợ là 5 tỷ đồng/dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng về xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng, đồng cỏ và mua thiết bị.

Để nhận được hỗ trợ trên, dự án cần có quy mô chăn nuôi thường xuyên tập trung từ 1.000 con trở lên đối với lợn thịt, hoặc 500 con trở lên đối với trâu, bò, dê, cừu thịt, hoặc từ 200 con đối với bò thịt cao sản nhập ngoại, hoặc từ 500 con đối với bò sữa cao sản.

Dự án trồng cây dược liệu, cây mắc ca có quy mô từ 50ha trở lên được ngân sách nhà nước hỗ trợ 15 triệu đồng /ha để xây dựng đồng ruộng, cây giống. Hỗ trợ xây dựng cơ sở sản xuất cây giống mắc ca quy mô 500.000 cây giống/năm trở lên, mức hỗ trợ tối đa là 70% chi phí đầu tư/cơ sở và không quá 2 tỷ đồng.

Dự án chưa có đường giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước đến hàng rào dự án thì còn được hỗ trợ thêm 70% chi phí và không quá 5 tỷ đồng xây dựng các hạng mục trên.

Các dự án được hỗ trợ phải nằm trong quy hoạch được duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chấp thuận cho phép đầu tư của UBND cấp tỉnh nếu chưa có quy hoạch được duyệt; cây dược liệu nằm trong danh mục quy định ưu tiên và khuyến khích phát triển của Bộ Y tế; nhà đầu tư phải sử dụng tối thiểu 30% lao động địa phương.

Nhà đầu tư có dự án nuôi trồng hải sản tập trung trên biển hoặc ven hải đảo được hỗ trợ ngân sách nhà nước là 100 triệu đồng cho 100m3 lồng nuôi đối với nuôi trồng hải sản ở vùng biển cách xa bờ trên 6 hải lý hoặc ven hải đảo. Hỗ trợ 40 triệu đồng cho 100m3 lồng đối với nuôi trồng hải sản ở vùng biển gần bờ.

Để nhận được hỗ trợ trên thì các dự án phải nằm trong quy hoạch được duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chấp thuận cho phép đầu tư của UBND cấp tỉnh nếu chưa có quy hoạch đầu tư; dự án phải có quy mô tối thiểu 5ha hoặc có 10 lồng nuôi từ 100m3/lồng trở lên. Nhà đầu tư phải sử dụng tối thiểu 30% lao động địa phương.

Nhà đầu tư có dự án đầu tư cơ sở sấy lúa, ngô, khoai, sắn, sấy phụ phẩm thủy sản, chế biến cà phê theo phương pháp ướt được ngân sách nhà nước hỗ trợ 2 tỷ đồng/dự án đối với sấy lúa, ngô, khoai, sắn, sấy phụ phẩm thủy sản để xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua thiết bị.

Hỗ trợ 3 tỷ đồng/dự án đối với sấy cà phê theo phương pháp ướt để xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua thiết bị.

Dự án được hỗ trợ phải có công suất tối thiểu 150 tấn sản phẩm/ngày với cơ sở sấy lúa, ngô, khoai, sắn. Sấy phụ phẩm thủy sản phải đạt tối thiểu 50 tấn sản phẩm/ngày. Chế biến cà phê theo phương pháp ướt đạt tối thiểu 5.000 tấn sản phẩm/năm.

Các dự án phải nằm trong quy hoạch được duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chấp thuận cho phép đầu tư của UBND cấp tỉnh nếu chưa có quy hoạch đầu tư. Dự án phải đảm bảo các yêu cầu quy định về môi trường, nhà đầu tư phải sử dụng tối thiểu 30% lao động địa phương và sử dụng tối thiểu 60% nguyên liệu lúa, ngô, khoai, sắn phụ phẩm thủy sản, và cà phê tại địa phương.

Nhà đầu tư có dự án xây dựng nhà máy chế biến gỗ rừng trồng, tre công nghiệp được ngân sách nhà nước hỗ trợ 20 tỷ đồng/nhà máy sản xuất gỗ MDF quy mô trên 30.000m3 gỗ MDF/năm trở lên. Hỗ trợ đầu tư 10 tỷ đồng/nhà máy đối với các nhà máy chế biến ván dăm, tre ép công nghiệp có quy mô trên 20.000m3 trở lên để xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, điện nước, nhà xưởng và xử lý chất thải.

Hỗ trợ chi phí vận chuyển sản phẩm với mức 1.500 đồng/tấn/km; khoảng cách được tính từ địa điểm đặt nhà máy đến đến trung tâm TP Hà Nội hoặc trung tâm TP Đà Nẵng, hoặc trung tâm TPHCM theo đường ô tô gần nhất. Khối lượng vận chuyển tính theo công suất thiết bị thực tế của nhà máy. Thời gian tính hỗ trợ là 5 năm, tổng hỗ trợ được chia làm 3 lần kinh phí hỗ trợ ngay sau khi hoàn thành nhà máy đảm bảo tối thiểu 70% kinh phí hỗ trợ.

Để được hỗ trợ các dự án phải đảm bảo nhiều điều kiện gồm: Dự án được chấp thuận cho phép đầu tư của UBND cấp tỉnh; diện tích rừng trồng và nguyên liệu hiện có trên địa bàn tỉnh phải đủ cho nhà máy hoạt động tối thiểu 60% công suất trong 5 năm đầu tiên. Dự án phải sử dụng tối thiểu 30% lao động địa phương. Tổng công suất thiết bị thực tế của các nhà máy được hỗ trợ vận chuyển không quá 200.000 tấn cho mỗi tỉnh.

Nhà đầu tư có dự án đầu tư nhà máy hoặc cơ sở bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản; cơ sở sản xuất sản phẩm phụ trợ; chế tạo thiết bị cơ khí để bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản được ngân sách nhà nước hỗ trợ không quá 60% chi phí và tổng mức hỗ trợ không quá 5 tỷ đồng/dự án. Hỗ trợ không quá 70% chi phí xử lý chất thải cho các nhà máy này. Hỗ trợ chi phí vận chuyển sản phẩm với mức 1.500 đồng/tấn/km; khoảng cách được tính từ địa điểm đặt nhà máy đến đến trung tâm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. . Khối lượng vận chuyển tính theo công suất thiết bị thực tế của nhà máy. Thời gian tính hỗ trợ là 5 năm.

Các dự án được hỗ trợ phải có giá trị sản phẩm sau chế biến gia tăng ít nhất 2 lần so với giá trị nguyên liệu thô ban đầu; đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường,.. Dự án phải sử dụng tối thiểu 30% lao động địa phương và sử dụng tối thiểu 60% nguyên liệu nông lâm thủy sản tại địa phương.

Các hỗ trợ này đều được chi trả sau khi doanh nghiệp triển khai đầu tư xong. Điều này có ngĩa là doanh nghiệp phải đầu tư thêm khoảng 50% vốn để hoàn thành dự án.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã ban hành thông tư số 05/2014/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện nghị định này trong đó quy định các mẫu đơn để doanh nghiệp điền và làm hồ sơ xin hỗ trợ.

Theo PGS. TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đây là chính sách rất hay và sẽ khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư vào nông lâm thủy sản.Tuy nhiên, điều quan trọng là khâu thực thi làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ một cách đơn giản nhất, tránh tình trạng thủ tục rườm rà, buộc doanh nghiệp phải bỏ phí bôi trơn để nhận ưu đãi thì ròng tiền sẽ không đem lại lợi ích đầu tư như mong đợi.

Malaysia: Giá hạt tiêu sẽ còn tăng thêm

Giá hạt tiêu, tuy đã trải qua một đợt tăng giá ngoạn mục trong sáu năm liên tiếp nhưng rất có khả năng sẽ tăng thêm do nhu cầu toàn cầu tiếp tục vượt quá nguồn cung.

“Chúng tôi nghĩ rằng giá hạt tiêu sẽ vẫn mạnh ít nhất là cho đến năm 2016 do tình hình cung ứng ngắn hạn toàn cầu,” ông Datuk Grunsin Ayom Tổng giám đốc Ủy Ban Hồ tiêu Malaysia (MPB), nói.

Tuy nhiên, ông từ chối dự đoán tiềm năng giá sẽ đảo ngược sau khi đã gia tăng một cách mạnh mẽ trên các thị trường năm ngoái.

Năm 2014, giá tiêu trắng Kuching loại 1 đóng cửa năm ở 38.000 RM/tấn so với 29.000 RM/tấn vào năm 2013, tức tăng 31%, trong khi tiêu đen tăng vọt lên 28.000 RM/tấn từ 19.600 RM/tấn đóng cửa năm 2013, tăng tới 42 %, một con số khổng lồ.

Tuy nhiên, giá tiêu trắng lẫn tiêu đen đã giảm trở lại ở 36.500 RM/tấn và 26.000 RM/tấn vào hôm thứ Ba tuần trước (ngày 17/2) và duy trì giá ở mức cao cho cả hai loại khi bắt đầu bước vào năm mới.

Còn nhớ, lần cuối cùng giá tiêu trắng chọc thủng mốc 30.000 RM/tấn là năm 1990 trước khi thị trường phải trải qua một giai đoạn củng cố dài. Giá đột ngột tăng mạnh trở lại bắt đầu từ năm 2009.


Nông dân Malaysia bên vườn tiêu bắt đầu cho hạt

Trong báo cáo thị trường năm 2014, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) cho biết giá tiêu đen bắt đầu từ 7.633 USD/tấn trong tháng Giêng và đạt 9.726 USD/tấn – mức cao hơn bao giờ hết – lúc gần cuối năm, đạt mức tăng 27% trong vòng một năm.

Lý do chủ yếu được các thị trường đưa ra là nguồn cung “rất hạn chế” từ các nước sản xuất vì sản lượng của họ thấp hơn. Theo IPC, sản lượng toàn cầu của năm 2014 đã giảm 336.000 tấn so với 379.000 tấn của năm 2013 do mùa màng đã bị ảnh hưởng từ thời tiết bất lợi.

Ông Grunsin cho biết dựa trên các số liệu IPC, nhu cầu thế giới đối với hạt tiêu đã tăng khoảng 4% mỗi năm so với tốc độ tăng trưởng sản xuất là 0,7% mỗi năm. Năm 2015 dự báo sản lượng toàn cầu khoảng 340.000 tấn so với nhu cầu khoảng 380.000 tấn, và do đó nguồn cung sẽ thiếu hụt 40.000 tấn.

“Nhu cầu hạt tiêu tiếp tục tăng trưởng bất chấp mức giá kỷ lục. Nhưng chúng ta cần phải thận trọng vì hạt tiêu cũng giống như bất kỳ loại hàng hóa khác, có thể bị biến động giá do vụ mùa mới sắp vào thị trường”, ông nói thêm.

Đưa ra một dẫn chứng, ông nói Campuchia, một quốc gia sản xuất mới, đã nâng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của mình lên con số 8.000 tấn trong năm ngoái.

Ông cho rằng sự gia tăng nhu cầu tiêu để ăn là xu hướng tăng của người tiêu dùng đối với nhiều gia vị thực phẩm, công dụng của gia vị như hương liệu tự nhiên trong thức ăn hỗn hợp, ví dụ, trong mì ăn liền.

Việt Nam, nhà sản xuất và cung cấp hạt tiêu hàng đầu thế giới, đã xuất khẩu 146.400 tấn hạt tiêu các loại trị giá 1,2 tỷ USD năm ngoái, cao hơn nhiều so với 134.442 tấn, trị giá 890 triệu USD trong năm 2013.

Việt Nam chiếm khoảng 30% sản lượng hạt tiêu thế giới và 50% khối lượng xuất khẩu toàn cầu. Indonesia, Ấn Độ, Brazil và Malaysia – tất cả các thành viên IPC – đều là nhà sản xuất ở top đầu thế giới.

Trang trại trồng tiêu quy mô thương mại ở Malaysia

Theo ông Grunsin, sản lượng hạt tiêu năm ngoái của Malaysia khoảng 26.500 tấn, trong đó đã xuất khẩu 12.400 tấn, đem về cho đất nước hơn 300 triệu RM ngoại hối. Bên cạnh hạt tiêu, Malaysia còn xuất khẩu tiêu bột, tiêu ngâm nước muối và tiêu tiệt trùng với số lượng lớn.

Malaysia còn là quốc gia nổi tiếng, cung cấp hạt tiêu chất lượng và các sản phẩm tiêu, rất đáng tin cậy trong việc thực hiện các hợp đồng với khách hàng kinh doanh gia vị nước ngoài.

Diện tích của các trang trại trồng tiêu ở Malaysia hiện có vào khoảng 15.500 ha, chủ yếu là của nông dân sản xuất nhỏ. Bang Sarawak chiếm hơn 95% sản lượng hạt tiêu của Malaysia trong khi Johore và Sabah là các bang trồng tiêu khác.

Một số bang khác ở bán đảo cũng đã đầu tư vào trồng tiêu, với một vài quy mô thương mại, trong những năm vừa qua.

“Do việc trồng mới, chúng ta có thể kỳ vọng sản lượng hạt tiêu sẽ tăng trong khoảng hai năm tới.

“Sự thúc đẩy trong năm nay là mở rộng các vùng trồng và thực hiện các hoạt động tái canh,” ông Grunsin nói thêm rằng cây tiêu sẽ mất khoảng ​​30 – 36 tháng mới bắt đầu ra bông.

* Tỷ giá: 1 USD = 3,6043 RM

Cây mắc ca: Chỉ trồng 10.000 héc ta chứ không phải 200.000 héc ta

Do mắc ca là cây trồng mới, quá trình khảo nghiệm còn cho nhiều kết quả khác nhau, vì vậy Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNT) chưa đủ căn cứ để phê duyệt quy hoạch cây mắc ca mà chỉ định hướng trồng 10.000 héc ta tới năm 2020 tại những vùng đã khảo nghiệm thành công.


Định hướng 10.000 héc ta đến năm 2020

Đây là nội dung trong báo cáo 2748 của Bộ NNPTNT do Thứ trưởng Hà Công Tuấn ký gửi Thủ tướng Chính phủ trong ngày hôm nay 6-4. Như vậy, số diện tích cây mắc ca mà Bộ NNPTNT cho phép trồng thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng của nhiều doanh nghiệp là 200.000 héc ta trong 5 năm tới.

Theo báo cáo này, mắc ca được trồng thử nghiệm ở Việt Nam từ năm 1994 và các khảo nghiệm giống cây mắc ca đã được triển khai tại 16 tỉnh; đến nay đã xây đựng dược 20 mô hình khảo nghiệm giống, với tổng diện tích là 35 héc ta, trong đó, có 30 héc ta đã ra quả.

Kết quả nghiên cứu khảo nghiệm ban đầu cho thấy, mắc ca có khả năng sinh trưởng và phát triển ở các vùng khảo nghiệm nhưng với tỷ lệ đậu quả và sản lượng khác nhau. Với những cây trồng 10 năm tuổi, một số vùng cho sản lượng cao nhất từ 17,5 đến 21,5 kg/cây (tương đương 3,9 đến 4,7 tấn/héc ta/năm); thấp nhất là từ 1,9 đến 2,5 tấn/héc ta/năm; một số nơi không đậu quả. Trên cơ sở đó, Bộ đã công nhận được 10 giống mắc ca.

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã thực hiện nhiều dự án như “Trồng sản xuất thử nghiệm một số giống mắc ca mới tại Tây Nguyên, Tây Bắc” năm 2011 trên diện tích khoảng 40 héc ta; “Trồng thâm canh cây mắc ca tại Tây Bắc và Tây Nguyên” năm 2012 với khoảng gần 480 héc ta; đồng thời các tổ chức, cá nhân tại các địa phương trong cả nước đã trồng được gần 2.000 héc ta cũng tại Tây Bắc và Tây Nguyên.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Tuấn cho rằng, mắc ca là cây mới, trong quá trình khảo nghiệm cho các kết quả khác nhau, đồng thời, vẫn chưa có một báo cáo phân tích kỹ các vấn đề về chế biến và thị trường; do đó Bộ NNPTNT chưa đủ căn cứ để đưa ra quy hoạch cây mắc ca, quy trình kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc, công nghệ chế biến… Song, Bộ NNPTNT sẽ nghiên cứu và ban hành những văn bản trên trong năm 2015.

Trước mắt, để hạn chế rủi ro cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp, Bộ NNPTNT chỉ đạo các địa phương hướng dẫn người dân trồng ở những nơi khảo nghiệm thành công, không triển khai trồng trên quy mô lớn tại những nơi chưa được trồng khảo nghiệm hiệu quả.

Bên cạnh đó, cần tổ chức đánh giá khảo nghiệm tại các địa phương, xác định cụ thể quy hoạch chi tiết từng vùng khí hậu đối với mắc ca. “Việc phát triển mắc ca theo quy mô lớn nhất thiết phải đảm bảo điều kiện gắn với cơ sở chế biến, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm” – trích văn bản.

Theo đó, tổng diện tích định hướng tới năm 2020 là 10.000 héc ta bao gồm cả trồng tập trung và xen canh thay vì đề xuất 200.000 héc ta như tham vọng của các nhà khoa học và doanh nghiệp trước đó.

Còn nhiều câu hỏi phải làm rõ

Quyết định này của Bộ NNPTNT được đưa ra trong bối cảnh lo ngại về việc phát triển ồ ạt “cây tỉ đô” sẽ dẫn tới thất bại như những cây trồng trước đó. Đặc biệt, chỉ cách đây vài ngày, Bộ đã tổ chức họp với các nhà khoa học, cơ quan quản lý… và họ đều thống nhất chưa nên mở rộng diện tích mắc ca một cách ồ ạt.

Tại buổi họp đó, TS Hà Huy Thịnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp cho rằng, trước mắt, chỉ nên tập trung phát triển ở những vùng có đặc điểm sinh thái thực sự phù hợp và có năng suất cao như Đăk Lăk, Sơn La; ưu tiên phát triển trồng xen với cà phê, chè.

Nhiều nhà khoa học tại buổi họp cho rằng, trước khi trồng trên diện rộng cần phải trả lời các câu hỏi: mắc ca Việt Nam có cạnh tranh được với mắc ca các nước hay không? Nếu trồng thì cần làm rõ trồng ở đâu, trồng bao nhiêu, giống gì, trồng như thế nào và tiêu thụ ra sao, lợi nhuận thế nào? Liệu mắc ca có cạnh tranh hơn so với các cây đã có sẵn như cà phê, tiêu, chè hay không?

Bên cạnh đó, Bộ trưởng NNPTNT Cao Đức Phát cho hay, mắc ca cũng là cây á nhiệt đới, mà vùng khí hậu á nhiệt đới trên thế giới rất nhiều chứ không chỉ riêng Việt Nam. Trong khi đến nay, chưa có thông tin nào cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh với các nước khác về mắc ca, mà cụ thể là Úc và Mỹ, những thành viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), những nước đã sản xuất mắc ca rất lâu.

Truyền thông thế giới đều nói tốt về mắc ca, các số liệu thống kê cũng cho thấy nguồn cung mắc ca ở nhiều nước đang tăng chóng mặt, có nơi trên 10%/năm. Trong khi đó, thông tin dự báo tin cậy về nhu cầu lại chưa rõ ràng. “Theo quy luật giá tăng thì nguồn cung sẽ tăng, đến một lúc nào đó cung sẽ cao hơn cầu, giá hạ, và một số nước không có lợi thế sẽ buộc phải rời cuộc chơi. Nước rời cuộc chơi sẽ là nước không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, giá thành cao, chất lượng thấp” – Bộ trưởng Phát nói.